Tìm hiểu lý lịch vấn đề đồ vàng mã, có lẽ chúng ta phải nhìn ngược lại từ thời mông muội xa xưa, thời mà sự suy nghĩ của con người còn đơn sơ, mới chỉ biết sống túm tụm trong những bộ lạc, đồ dùng thì chỉ có dăm ba món tối cần thiết thí dụ lọ chứa nước, nồi niêu bằng đất, khí giới bằng đá, áo quần bằng da thú, vân vân… Tóm lại, toàn bộ của cải vật chất chỉ là mấy món đồ đơn giản đủ làm vật dụng sinh nhai hằng ngày và bảo vệ mạng sống trước thú dữ và kẻ thù mà thôi. Ngành khảo cổ đã phát giác ra những ngôi mộ từ thời rất xa xưa, tại đó, lẫn với xương cốt là những món đồ dùng hằng ngày như nồi niêu vò nước vân vân, chứng tỏ chúng đã được chôn theo người chết.
Sau này, theo với đà tiến hóa, lịch sử chôn của cải theo người chết cũng trải qua những bước thăng trầm, có những hồi cực thịnh lên tới mức tối dã man như khi chôn hoặc thiêu cả đến những người còn sống mà sinh thời được người quá cố thương yêu hoặc có những thời nhờ lương tâm thức tỉnh một phần, người ta dùng người giả thay cho người thật, gọi là “mộc nhân thế mạng” (hình người bằng gỗ) hoặc “hình nhân thế mạng” (hình người đan bằng tre dán giấy bên ngoài),và đồ giả gọi là hàng mã thay cho đồ thật để đốt theo người chết.
Tuy vậy, cái tư tưởng “thế mạng” vẫn gợi lên hình ảnh dã man về sự giết người, nên Khổng Tử và Mạnh Tử đã nặng lời thống trách rằng:
“Kẻ nào sinh ra tục chôn người gỗ theo với người chết là bất nhân” và
“Kẻ nào dùng người bù nhìn là tuyệt tự”.
Như thế, vấn đề đốt đồ giả là vàng mã này đã có chiều dài lịch sử gần dài bằng lịch sử loài người, duy không phải trước sau đồng nhất mà biến thiên theo từng thời gian, thoát thai từ chôn đồ dùng thật, chôn sống người thật hoặc hỏa thiêu cho chết theo, hoặc dùng mộc nhân thế mạng, hình nhân thế mạng, dùng đồ bằng giấy thay đồ thật đốt cho người chết, tựu trung cũng từ niềm tin mê muội cộng với lòng xót thương người thân yêu qua đời một cách mù quáng, muốn cho họ có những tiện nghi như khi còn sống mà thôi.
Hành động dã man hỏa thiêu người còn sống trong tang lễ này, lịch sử Việt Nam còn ghi lại câu chuyện đáng buồn xảy ra ở thế kỷ 13, là chuyện Huyền Trân Công Chúa nhà Trần, được gả cho vua Chiêm Thành để đổi lấy 2 châu Ô Lý. Chẳng bao lâu vua chết, theo phong tục thì bà phải lên giàn hỏa thiêu chết theo chồng. Nhưng tướng Trần Khắc Chung đã cứu thoát đem về quê hương Việt Nam.
Theo cuốn Champaka số 1 – 1999, người Champa (tức là Chiêm Thành) coi sự việc này là quốc nhục và các vua Champa kế tiếp đã từng dùng vũ lực, vào các năm 1311 – 1312 -1317 – 1318 – 1326 và 1353, để yêu cầu Đại Việt trao trả cho vương quốc này hai châu Ô Lý nhưng không thành.
Sử gia Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký toàn thư phê phán rằng:
“Ngày xưa Hán Cao Hoàng vì nước Hung Nô nhiều lần làm khổ biên cương, mới lấy con gái nhà dân làm công chúa gả cho thiền vu. Kết hôn với người không cùng giống nòi, các tiên nho đã từng chê trách, song dụng ý là muốn binh yên, dân nghỉ, thì còn có thể nói được. Hán Nguyên Đế thì vì chúa Hung Nô là Hô Hàn Tà sang chầu, xin làm rể nhà Hán, nên lấy Vương Tường mà ban cho, cũng là có cớ. Còn như Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa làm sao? Nói rằng nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại lệnh đó có được không? Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi lại lệnh đó thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước, rồi sau lại dùng mưu gian trá cướp về, thế thì Tín ở đâu?
Trong Việt Sử Toàn Thư, nhà sử học Phạm Văn Sơn viết:
“Việc tướng Trần Khắc Chung lập mưu đưa Huyền Trân trở về nước sau khi Chiêm Vương qua đời, dù sao ta cũng phải nhận là một việc bất tín đối với Chiêm Thành. Vậy thì phản ứng của nước Chiêm là lẽ dĩ nhiên và chính đáng.”
Như thế, niềm tin chôn hoặc thiêu người còn sống, mà sau này dần dần thay thế bằng đồ giả, gọi là hàng mã, để tiếp tục làm bầu bạn hoặc hầu hạ người đã chết ở thế giới bên kia không phải là từ đạo Phật hoặc đạo Khổng, mà vốn có từ thời đại cổ xưa, khi sự suy nghĩ của con người còn quá đơn giản.
Để thấu triệt vấn đề này, hòa thượng Thích Tố Liên, một vị danh tăng của Phật giáo Việt Nam đã có bài giảng rất minh bạch. Ngài là một trong những cột trụ của phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc, trong việc thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam trên Toàn quốc và trong công cuộc thành lập Hội liên hữu Phật giáo Thế giới vào những năm giữa thế kỷ 20. Ngài vốn dòng dõi Nho gia, đi tu từ trẻ, Phật học và Khổng học đều uyên thâm. Hòa thượng dạy rằng:
…”… Ở đời, cái gì cũng phải có nguyên nhân mới có kết quả, tục đốt vàng mã cũng vậy.
Đọc kinh Dịch nhà Nho, chúng ta thấy rằng tục chôn người chết của người Trung Hoa về đời thượng cổ, một khi có người chết cứ để thế đem chôn, không quan không ván, lại cũng không khoanh phần mộ gì cả.
Đến đời vua Hoàng đế (2679 trước Tây lịch) mới cho rằng: “Con cháu đối với ông bà, cha mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận”, bèn mới sai ông Xích Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải qua đời Hoàng đế, đến đời Đường Ngu, tục lệ chôn cất người chết vẫn chỉ có thế.
Nối nhà Ngu là nhà Hạ (2205 trước Tây Lịch), người Trung Hoa mới bắt đầu dùng đất sét nặn làm mâm bát, dùng tre gỗ làm nhạc khí, như chuông khánh, đàn sáo v.v… để chôn theo người chết. Các đồ vật đó được gọi là minh khí, hoặc gọi là quý khí, tức là những đồ vật đem chôn theo cho thần hồn người chết dùng ở âm phủ, lễ nhạc đối với người chết bắt đầu có từ đấy.
Đã chế ra đồ dùng cho người chết, tất nhiên phải có kẻ hầu hạ người chết, thế là người ta lại chế ra người bù nhìn bằng gỗ đem chôn theo người chết. Đến đời nhà Ân (1765 tr.TL), lại không dùng mâm, bát, đồ đất và nhạc khí bằng tre, gỗ để chôn theo người chết nữa, họ dùng toàn đồ thật chôn theo.
Đến đời nhà Chu (1122 trước Tây lịch), người Trung Hoa đã bắt đầu văn minh hơn; cố nhiên lễ nhạc đối với người chết cũng được ăn nhịp mà tiến bộ, đối với người chết, đã được người sống phân ra giai cấp sang, hèn trong việc thực hiện lễ nghi chôn cất. Từ vua cho đến các quan lớn khi chết đi, sẽ được dùng cả đồ vật giả theo lệ nhà Hạ và đồ vật thật theo lệ nhà Ân để chôn theo các vua chúa đã chết; còn từ hạng sĩ phu tới bình dân, khi chết chỉ được chôn theo độc nhất một thứ đồ giả thôi. Nếu người hèn hạ nào mà dùng lễ nghi ngang với người sang, tức khắc phải tội “tiếm lễ”.
Không những thế, dã man nhất, độc ác nhất là người ta còn bịa đặt ra những “tuẫn táng”; nghĩa là khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con đến bộ hạ của các vua, các quan lớn, đồ yêu quý của người chết khi còn sống, sẽ phải đem chôn sống để làm đồ dùng khi đã chết.
Sách Tả Truyện chép: “Đời vua Văn Công thứ sáu, vua Trần Mục Công tên là Hiếu Nhân chết, ba anh em họ Tứ Xa là Yểm Tục, Trọng Hành và Chàm Hổ đều bị chôn sống theo Mục Công. Người trong nước tỏ lòng thương tiếc ba anh em họ Tứ Xa là người hiền đức, mới làm ra thơ Hoàng Diệu để tỏ ý than vãn, mỉa mai. Trong thơ đại ý nói: “Ba anh em họ Tứ Xa đều là những người hiền đức gấp trăm nghìn người khác, trời đất ơi! Sao nỡ đem chôn sống để đi theo người đã tận số là Mục Công. Nếu ba trăm người như chúng tôi này được chết theo Mục Công để thế mạng cho ba người hiền đức ấy, chúng tôi rất vui lòng mà chết thay”.
Về sau người ta cũng nhận thấy đem người sống chôn theo với người chết là vô nhân đạo, mới chế ra người cỏ Sô Linh. Rồi vì người cỏ không được mỹ thuật, người ta lại dùng đồ gỗ “mộc ngẫu” như trước. Sách Trang Tử chép: “Đời vua Mục vương nhà Chu (1001 trước Tây Lịch) có người tên là Yến Sư chế ra người cỏ để chôn theo người chết.
Đến thời nhà Hán, giới trí thức Nho học cảm động trước lời cự tuyệt thống thiết của Khổng Tử và Mạnh Tử trong tục lệ dùng người sống chôn theo với người chết, mới bỏ tục lệ “tuẫn táng”, không dùng người sống chôn theo với người chết nữa mà làm nhà mồ để cho vợ, con, tôi, tớ người đã chết ra để săn sóc mộ. Còn các đồ ăn mặc của người chết kia, khi còn sống dùng những thứ gì, khi chết cũng đem chôn theo hết. Ngôi nhà mồ kia muốn cho thêm oai vệ, người ta lại đục phỗng đá, voi, ngựa đá để bài trí chung quanh phần mộ.
Từ đời Hán Hoa đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (105), ông Thái Lĩnh bắt đầu lấy cỏ cây dó và vải rách, lưới rách đem chế ra giấy. Đã có giấy, ông Vương Dũ liền chế ra vàng bạc, quần áo v.v… đều bằng đồ giấy để cúng rồi đốt đi để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong tang ma, tế lễ. Sách Thông Giám cương mục chép: “Vì vua Huyền Tôn mê thuật quỷ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan thái thường bác sỹ để coi việc chế vàng mã dùng trong khi nhà vua có tế lễ. Chúng ta có thể liệt Vương Dũ vào hàng thủy tổ nghề vàng mã được”.
Trong Phật giáo, đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên. Thế thì tại sao ngày Rằm tháng Bảy là ngày lễ trọng thể của Phật giáo, mà một số tín đồ nhà Phật đốt rất nhiều vàng mã để kính biếu gia tiên?
Nguyên nhân đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy là thế này, vào thời vua Đạt Tôn nhà Đường (762 Tây Lịch) bên Trung Hoa, nhằm lúc Phật giáo cực thịnh, một vị sư tên là Đạo Tăng muốn cho dân chúng theo Phật giáo, bèn lợi dụng tục đốt vàng mã của người dân, vào tâu với nhà vua rằng:
“Rằm tháng Bảy là ngày của Diêm Vương ở âm phủ xét tội phúc thăng trầm, nhà vua nên thông sức cho thiên hạ, trong việc lễ cúng gia tiên vào ngày Rằm tháng Bảy nên đốt nhiều vàng mã để cúng biếu các vong nhân dùng.”
Vua Đạt Tôn đương muốn được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo Tăng, liền hạ chiếu cho thiên hạ. Thế là nhân dân Trung Hoa lại được dịp thi nhau đốt vàng mã vào ngày Rằm tháng Bảy để kính biếu gia tiên. Nhưng chẳng bao lâu lại bị giới Tăng sĩ Phật giáo công kích bài trừ, vì cho rằng việc đốt vàng mã vào ngày lễ trọng của Phật giáo đã làm cho cái lệ ngày Rằm tháng Bảy không còn có chính nghĩa nữa.
Phần lớn dân chúng Trung Hoa hồi đó đã tỉnh ngộ, cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã, làm cho các nhà chuyên sinh sống về nghề sản xuất vàng mã gần như bị thất nghiệp, nhất là người tên Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, đã bịa đặt chế ra đồ vàng mã.
Thất nghiệp, Vương Luân mới bàn cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề nghiệp hàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm, rồi tin chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống. Đương khi xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ hàng của ông, đem hàng ngàn thứ đồ mã trong đó có cả hình nhân thế mạng ra cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ.
Trong khi mọi người đang suýt xoa khấn khứa, bỗng trăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động lên. Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài. Chàng giả chết kia cũng lò dò ngồi dậy, trông trước, trông sau, mới bước từ quan tài ra, với điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật chuyện với công chúng rằng:
– “Các thần thánh trong tam, tứ phủ vừa nhận được hình nhân thế mạng cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho ba hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế”.
Công chúng lúc đó ai cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mạng được và thánh thần trong tam, tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng thêm tuổi thọ.
Từ đấy các nghề hàng mã lại được phục hưng một cách nhanh chóng vì không những linh hồn các gia tiên dùng vàng mã, mà đến cả thiên, địa, quỷ, thần trong tam, tứ phủ cũng dùng đồ giả, thì dĩ nhiên là vàng mã phải đắt hàng. Chuyện này còn chép rõ ràng ở sách Trực Ngôn Cảnh Giáo.
Như thế, chúng ta nên thẳng thắn nhìn nhận rằng:
“Bịa đặt ra tục mê tín, dị đoan, làm hình nhân thế mạng vào lễ tam, tứ phủ để đầu độc mê tín đến ngày nay là bắt đầu từ Vương Luân”. Người Trung Hoa đã bị cái bả mê tín vàng mã do Vương Luân đầu độc đến nay đã được gần hai ngàn năm. Dân tộc Việt Nam chúng ta mê tín cũng chẳng kém, vì trước đây chúng ta bị họ đô hộ hơn 1.000 năm. Phong tục của người họ như thế nào, người mình cũng dập theo đúng khuôn khổ như vậy, bất luận hay, dở, phải, trái, tà, chính. Đó là do cái tính cẩu thả, phụ họa của người mình.
Nếu chúng ta đã thừa nhận tinh thần của dân tộc Việt Nam đều nhờ Phật giáo và Nho giáo đào tạo nên, vậy thì xin hỏi giới trí thức Việt Nam:
“Hiện tại có ai tìm thấy Phật giáo và Nho giáo dạy về thuyết đốt vàng mã ở kinh sách nào? Nếu không tìm thấy tục đốt vàng mã do Phật giáo hay Nho giáo truyền dạy, tôi xin thiết tha yêu cầu người Việt Nam ta bỏ tục đốt vàng mã đi, và khuyên mọi người cùng bỏ tục ấy.”
Trên đây là lời giảng dạy tha thiết của hòa thượng Thích Tố Liên. Ngài là bậc uyên thâm Phật học và Nho học. Ngài đã nghiên cứu kỹ lưỡng và quả quyết rằng tục đốt vàng mã không do đạo Phật hoặc Khổng Tử bày ra, mà từ rất nhiều nguồn gốc, tựu trung đều do thói tật mê tín.
Theo sách Trung Dung của nhà Nho, đức Khổng Tử dạy:
“Kính kỳ sở tồn, ái kỳ sở thân, sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn”, có nghĩa là “dù cha mẹ đã qua đời, người con có hiếu vẫn nhớ lời dạy bảo của cha mẹ như khi các người còn sống, thương kính những người mà khi còn sinh tiền cha mẹ đã thương kính”.
Được hỏi về vấn đề con người sau khi chết, Khổng Tử dạy:
“Bất tri sinh yên tri tử” có nghĩa là “chưa biết rõ về đời sống làm sao biết về việc sau khi chết”.
Được hỏi về cách ứng xử với quỷ thần, Ngài dạy:
“Kính quỷ thần nhi viễn chi”, có nghĩa là “kính trọng quỷ thần, nên tránh xa”.
Điều đó nói lên quan điểm nhân bản và thực tế của Không Tử, muốn đời sống trở nên tốt đẹp, tạo dựng hạnh phúc cho kiếp người, không lan man về những điều huyền hoặc xa vời.
Tuệ Đăng (ĐPK)